Page 457 - DIA CHI TUYEN QUANG_PHAN DAU
P. 457
457
Phêìn thûá ba: LÕCH SÛÃ
đồng thời tạo cơ sở cho việc ra đời các hợp Vụ mùa năm 1951, toàn tỉnh cấy được
tác xã sau này. 51.793 mẫu, thu hoạch 36.255.100 kg thóc.
Để nâng cao năng suất, sản lượng Năm 1952, diện tích chiêm tăng hơn hẳn
lương thực, tỉnh chú trọng áp dụng tiến so với năm trước 6.775 mẫu; năm 1953
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông tăng hơn năm 1952 là 5.769 mẫu. Năm
nghiệp, đặc biệt là thực hiện cấy giống lúa 1954, diện tích cấy chiêm chính vụ và cấy
mới. Vụ chiêm 1951 - 1952, toàn tỉnh cấy lúa Nam Ninh tăng 3.350 mẫu so với năm
được 82,8 mẫu giống lúa Nam Ninh, 845 1953; vụ mùa toàn tỉnh có 58.375 mẫu.
mẫu giống lúa Ba Giăng; vụ chiêm 1952 - Ngoài lúa, tỉnh còn phát triển các loại màu
1953, cấy được 201 mẫu giống lúa Nam để tăng cường nguồn thu lương thực. Đến
Ninh, 488 mẫu giống lúa Ba Giăng. Vụ tháng 6-1952, tỉnh đã trồng được 3.270,5
chiêm 1953 - 1954, diện tích cấy lúa Nam mẫu sắn, ngô, khoai. Năm 1953, tăng hơn
Ninh đã tăng hơn nhiều. Bên cạnh việc vận 50% so với năm 1952. Các loại cây khác
động cấy giống lúa mới, tỉnh tuyên truyền, như lạc, vừng, đỗ xanh, đỗ tương, bông...
chỉ đạo nông dân các vùng sâu, vùng xa cũng tăng diện tích.
trồng thêm các loại cây nông nghiệp, phá Tỉnh cũng chú ý phát triển chăn nuôi
thế độc canh, nhờ đó mà đồng bào Dao đã gia súc, gia cầm. Đến giữa năm 1952, toàn
bắt đầu phát triển trồng cây sắn. tỉnh có 25.574 con trâu, 1.537 con bò, 38.283
con lợn. Phong trào chăn nuôi phát triển
Công tác thủy nông, phòng chống hạn
được thực hiện khá tốt. Đi đôi với thuỷ mạnh ở Chiêm Hóa và Nà Hang. Ở Yên
Nguyên (Chiêm Hóa), năm 1953, có 963
nông, phong trào vận động cải tiến kỹ con trâu, bò; năm 1954 có 1.152 con (tăng
thuật canh tác thường xuyên được khuyến 19%). Xã Bằng Cốc (Hàm Yên) năm 1953
khích, tạo điều kiện. Từ năm 1951, sau có 267 con trâu, bò; năm 1954 tăng lên 323
chiến dịch “làm cỏ bỏ phân”, nhân dân đã con (tăng 21%).
cày bừa nhiều lần hơn trước. Một số xã ở Tuyên Quang chủ trương “phát động
Yên Bình, Yên Sơn, Sơn Dương đã biết làm công nghệ, coi thủ công nghiệp gia đình
phân xanh, phân mục. Việc gieo mạ thưa, là chính; duy trì và phát triển các xưởng
cấy ít nhánh, dùng cào cỏ... ngày càng thủ công đã có, chú trọng các nghề vải,
rộng rãi. chiếu, nông cụ, gây cơ sở một số nghề
Năm 1951, tinh thần thi đua tăng gia mới cần thiết như đồ gốm” . Tính đến
1
sản xuất còn lan rộng trong các cơ quan tháng 10-1953, có 7 tổ cán bông, 8 cơ sở
nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân trên dệt chiếu, 49 lò đường, 1 lò thuộc da, 3 cơ
địa bàn. Sang năm 1952, phong trào tăng sở làm bừa, 41 lò rèn dao, cuốc xẻng, 2 lò
gia tiết kiệm đã rầm rộ, đạt kết quả tốt. của Nhà nước sản xuất lưỡi cày, 1 xưởng
Riêng 6 tháng đầu năm, các cơ quan đã dệt vải, 2 lò sản xuất bát, chén, nồi, vại,
thu hoạch được 17.792 kg rau xanh, cấy 1 lò cồn sắn, 4 cơ sở sản xuất giấy và 1 lò
58,2 mẫu lúa chiêm, trồng 1.662 cây đu đủ, sản xuất diêm tiêu.
2.739 cây chuối, 16.429 gốc sắn; chăn nuôi Sự nghiệp văn hóa - xã hội đạt được
thu được 2.589 kg thịt. những bước phát triển vượt bậc. Tỉnh tiếp
1. Báo cáo tổng kết công tác năm 1953 của Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh Tuyên Quang, ngày 14-
12-1953.