Page 370 - Chien thang VB-TD 1947
P. 370
TUYÊN QUANG - VIỆT BẮC THU ĐÔNG 1947...
phạm vi chiến lược toàn cầu của mình. chính sự cân nhắc giữa hoa
Kỳ, Pháp nên đã xuất hiện “giải pháp Bảo Đại” ở Việt nam. Giải
pháp Bảo Đại năm 1948 ra đời như một canh bạc chính trị phức tạp .
1
Muốn đạt được các mục tiêu của mình, Pháp phải giành được
chiến thắng quân sự quan trọng tại Việt nam. Tuy nhiên trận tiến
công cuối năm 1946 của Việt Minh vào hà nội - mà chúng tôi xem
như một chiến dịch quân sự đầu tiên của lực lượng vũ trang cách
mạng Việt nam , đã cảnh báo về những giới hạn của khả năng quân
2
sự của Pháp ở Đông Dương. Mặc dù vậy, vào Thu - Đông 1947, tình
thế chính trị và quân sự của Pháp ở Việt nam đã có những cải thiện
nhất định: quân lực được tăng cường, phạm vi kiểm soát mở rộng,
Paris và viên cao ủy mới ở Đông Dương đã thống nhất đẩy mạnh
giải pháp quân sự. Vì thế, khoảng 10 tháng sau khi Việt Minh rút
khỏi hà nội, quân Pháp tập trung lực lượng mở chiến dịch quy mô
lớn đầu tiên, hướng tiến công vào căn cứ địa Việt Bắc. Sự kiện này
khẳng định rõ thêm Bắc Bộ là chiến trường chính của hai bên trong
ván cờ quyết đấu.
Đối với quân Pháp, cuộc tiến công này có ý nghĩa vô cùng trọng
đại. Bởi theo tính toán của Pháp, với thế thượng phong của mình,
quân Pháp sẽ lấy lại thế chủ động trên chiến trường. Giới chức quân
sự Pháp hoàn toàn tin tưởng rằng họ sẽ nắm quyền điều khiển nhịp
điệu của cuộc chiến. Đó cũng là cách mà họ hy vọng xóa tan đi
những dư luận về một cuộc chiến tranh bẩn thỉu đang diễn ra tại
1. Đã có những ý kiến khác nhau trong các phe phái chính trị ở Pháp
về vấn đề “độc lập” của Việt nam. Trong nước một số lực lượng liên kết ủng
hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp về độc lập của Việt nam. hoa Kì ủng hộ
xu thế trao trả độc lập cho thuộc địa, trong đó có Việt nam, với điều kiện
người đứng đầu chính phủ không phải là cộng sản. cuối năm 1947, chính
phủ Pháp và Bảo Đại thỏa thuận thành lập Quốc gia Việt nam nằm trong
Liên hiệp Pháp.
2. nguyen Dinh Le, “Discussion of the role of the Battle of hanoi
(December 1945 - February 1947) in the national Liberation War”, Tạp
chí Thông tin khoa học xã hội, 2010.
371