Page 199 - Chien thang VB-TD 1947
P. 199
TUYÊN QUANG VỚI CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC - THU ĐÔNG 1947
đường sông. 10 giờ ngày 10 tháng 11, quân Pháp gồm hơn 200 lính
âu - Phi trên 2 chiếc LcM và 1 canô từ chiêm hóa xuôi dòng sông
Gâm. Khi quân Pháp đến ngã ba sông Gâm và sông Lô đã lọt vào
trận địa phục kích của quân ta. chờ cho tàu Pháp đến gần, pháo ta
bắn 4 phát làm cho 2 chiếc LcT trúng đạn, chìm tại chỗ. Từ trên
núi, Trung đoàn 112, kịp thời bắn badôca vào canô, quân Pháp hốt
hoảng nhảy lên bờ, chạy vào rừng. Trên bờ, đội du kích đã phục sẵn,
tiếp tục tiêu diệt thêm được một số quân Pháp nữa. Kết thúc trận
đánh, quân ta thắng lợi vang dội khi bắn chìm được 2 tàu chiến, 1
canô, tiêu diệt 200 quân Pháp .
1
cánh quân đường bộ cũng liên tục bị dân quân du kích cùng
bộ đội chủ lực chặn đánh ở Đèo Gà, cầu cả, chợ Bợ và suốt quãng
đường từ Km 25 đến Km 21. có thể nói, binh đoàn commuynan
phải mất rất nhiều thời gian, hao tổn sinh lực, mệt mỏi về tinh thần
mới đến được chiêm hóa (Tuyên Quang) nhưng rồi đành quay trở
lại thị xã Tuyên Quang
ngày 23 tháng 11 quân Pháp bị chặn đánh ở Bình ca khi định
tiến vào Sơn Dương. ngày 26 tháng 11, quân ta bắn cháy 2 canô ở
bến cốc, gài địa lôi diệt 50 quân Pháp. Trước tình thế bất lợi, có thể
bị tiêu diệt, quân Pháp vội vã rút lui khỏi mặt trận sông Lô. Từ ngày
4 đến ngày 15-12-1947 quân Pháp chia làm hai đường rút khỏi Sơn
Dương: một qua Đèo Khế sang Thái nguyên, một qua Thiện Kế về
Việt Trì, Vĩnh yên, Tuyên Quang sạch bóng quân xâm lược.
có thể nói, với thế trận chiến tranh nhân dân, quân và dân ta
đã đồng lòng đánh địch trên khắp tỉnh Tuyên Quang nói riêng và
các tỉnh Việt Bắc nói chung. các trận tập kích, quấy rối, phục kích
của quân và dân ta làm cho quân Pháp hàng ngày, hàng giờ bị tiêu
hao sinh lực, tinh thần luôn trong trạng thái hoang mang, lo sợ.
chiến thuật đánh du kích và thế trận chiến tranh nhân dân của
ta làm cho quân Pháp hết sức lúng túng, bị động. Quân Pháp hễ
1. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự: Lịch sử cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp 1945-1954, tập II. Toàn quốc kháng chiến, Sđd, tr.246.
200